Tôi 42 t.uổi, có cục nhỏ ở ngực phát hiện qua siêu âm khi khám sức khỏe, bác sĩ dặn 6 tháng khám lại.
Nhưng tôi lo lắng muốn đến Bệnh viện K khám lại, tôi sẽ phải trải qua quá trình khám như thế nào?
TS.BS Lê Hồng Quang, Trưởng khoa Ngoại vú, Bệnh viện K trả lời:
Bạn quan tâm đến sức khỏe của mình, muốn khám sàng lọc ung thư vú là hoàn toàn chính đáng.
Bởi ung thư vú là bệnh ung thư thường gặp nhất ở nữ giới, đây cũng là mối quan tâm của nhiều chị em phụ nữ, bởi theo thống kê của GLOBOCAN năm 2018, nước ta có 15.000 người mắc căn bệnh này chiếm tỷ lệ 9,2% và hơn 6000 trường hợp t.ử v.ong vì ung thư vú.
Bài Viết Liên Quan
- Đổ bệnh vì giao mùa và ô nhiễm
- Đu dây xuống vách đá lấy mật ong, người đàn ông bị ong đốt t.ử v.ong
- Chủ quan không vào viện sau khi ngã xe, người đàn ông bị vỡ bàng quang
Siêu âm vú cho bệnh nhân tới khám tại Bệnh viện K.
Với tình trạng của bạn, bạn có thể đi khám sàng lọc ung thư vú. Tại Bệnh viện K, các bước khám sàng lọc ung thư vú được thực hiện như sau:
– Thứ nhất, các bác sĩ sẽ thực hiện khám lâm sàng, tư vấn giải thích cho người bệnh.
Đây là bước khám đầu tiên, rất quan trọng trong quá trình khám tầm soát ung thư vú. Bác sĩ sẽ hỏi các thông tin cụ thể về t.uổi, tình trạng sức khỏe, chu kỳ k.inh n.guyệt, các triệu chứng hiện tại hay bệnh sử cá nhân và gia đình, … nhằm đ.ánh giá nguy cơ mắc bệnh. Sau đó sẽ tiến hành khám lâm sàng phát hiện các biểu hiện, dấu hiệu của bệnh.
– Thứ 2, siêu âm vú, chụp X-quang vú
Siêu âm vú là phương pháp sử dụng sóng âm năng lượng cao giúp các bác sĩ kiểm tra được các mô và cơ quan trong cơ thể. Siêu âm vú có thể giúp bác sĩ xác định các bất thường trong vú, giúp phát hiện những trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm.
Khi sử dụng phối hợp với chụp X-quang tuyến vú, siêu âm làm tăng độ nhạy của việc sàng lọc.
– Khi phát hiện những nghi ngờ, bác sĩ sẽ chỉ định các phương pháp chuyên sâu hơn,
Như chụp MRI (cộng hưởng từ): phương pháp này giúp bác sĩ theo dõi một loạt các hình ảnh ở cả hai tuyến vú.
Xét nghiệm m.áu: xét nghiệm m.áu nhằm xác định các chất trong m.áu được giải phóng bởi các cơ quan hoặc các mô trong cơ thể. Nồng độ cao hoặc thấp bất thường của một chất nào đó có thể là dấu hiệu của một số loại bệnh nhất định.
Sinh thiết: quan sát các mô và tế bào dưới kính hiển vi để tìm ra dấu hiệu ung thư. Nếu phát hiện khối u ở vú, các bác sĩ có thể lấy mẫu mô hoặc tế bào của khối u này để thực hiện xét nghiệm. Có nhiều phương pháp sinh thiết khác nhau, tùy vào từng người bệnh cụ thể bác sĩ sẽ đưa ra chỉ định sinh thiết phù hợp.
Tùy vào trường hợp cụ thể để bác sĩ đưa những chỉ định phù hợp. Vì thế, bạn không nên quá lo lắng, có thể sắp xếp thời gian đi khám, sàng lọc ung thư vú để được yên tâm hơn.
Khi nào cần sàng lọc ung thư vú?
Tôi năm nay 42 t.uổi, có mẹ đã mất vì ung thư vú cách đây 3 năm. Vậy khi nào tôi cần đi khám để sàng lọc nguy cơ ung thư vú?
GS.TS Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế, nguyên Giám đốc Bệnh viện K khuyến cáo, chị em trên 40 t.uổi nên sàng lọc ung thư vú hàng năm. Bởi ở người Việt, t.uổi mắc ung thư vú trẻ hơn so với các nước. Vì thế, ngoài việc tự khám vú mỗi tháng, chị em cần được tầm soát ung thư vú từ t.uổi 40.
Đặc biệt, bạn có mẹ bị ung thư vú, như vậy bạn là người có yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn người bình thường, vì thế, bạn nên thực hiện khám sàng lọc định kỳ sớm.
Các bác sĩ cho biết, chụp X-quang cho phép sàng lọc ung thư vú ở quần thể khỏe mạnh, ngay cả phụ nữ chưa có dấu hiệu gì của bệnh đều được chỉ định. Những người có yếu tố nguy cơ cao như có mẹ, chị gái, em gái mắc ung thư vú, người từng bị ung thư một bên vú…càng nên được chụp X-quang tuyến vú định kỳ.
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú. Ngoài các yếu tố di truyền, nguy cơ ung thư vú có liên quan đến t.uổi bắt đầu k.inh n.guyệt muộn, t.uổi sinh con lần đầu trên 30 t.uổi. Xu hướng mắc ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam bắt đầu tăng từ độ t.uổi 30-34 t.uổi và tăng nhanh, đỉnh cao ở 55-59 t.uổi với tỷ lệ là 135/100.000 dân.
GS Thuấn cho biết, với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm tỉ lệ chữa khỏi đến 95%. Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. Trong giai đoạn 2008-2010, qua sàng lọc 70.980 phụ nữ tại 7 tỉnh/thành phố, tỷ lệ phát hiện ung thư vú qua sàng lọc là 59,2/100.000 phụ nữ là khá cao, cho thấy hiệu quả khi triển khai các chương trình này tại cộng đồng.
Tuy nhiên tại cộng đồng, chỉ có 24,2% phụ nữ có thực hành tự khám vú hàng tháng trong số những người tham gia chiến dịch sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú. Tuy nhiên, tín hiệu đáng mừng đó là tỷ lệ phát hiện bất thường ở nhóm phụ nữ thực hành tự khám vú thấp hơn ở nhóm không thực hành cho thấy hiệu quả và ý nghĩa của việc hướng dẫn phụ nữ tự khám vú đối với việc phát hiện sớm tổn thương ung thư vú.